Cần kết nối cung - cầu để mở rộng thị trường cho ngành công nghiệp cơ khí

Tìm kiếm Tìm kiếm
Mua hàng0 Mua hàng
Báo giá Báo giá
Cần kết nối cung - cầu để mở rộng thị trường cho ngành công nghiệp cơ khí
04/10/2023 10:35 AM 541 Lượt xem

    Ngành cơ khí là một trong những ngành công nghiệp mang tính xương sống, đóng vai trò là động lực dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế. Thời gian qua, ngành cơ khí có bước phát triển vượt bậc khi từng bước làm chủ và nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, tạo động lực thúc đẩy ngành công nghiệp và kinh tế phát triển. Song, phải nhìn nhận thực tế, số lượng sản phẩm cơ khí mang thương hiệu Việt Nam vẫn chưa nhiều; xuất khẩu của ngành cơ khí vẫn nằm trong tay các doanh nghiệp (DN) có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).

    Từng bước làm chủ công nghệ

    Với khoảng 30.000 doanh nghiệp cơ khí đang hoạt động, năm 2022, tăng trưởng sản xuất của ngành cơ khí Việt Nam đạt 16,5% so với năm 2021; doanh thu toàn ngành đạt hơn 1,7 triệu tỷ đồng và tạo việc làm cho hơn 1,2 triệu lao động. Trong những năm qua, ngành cơ khí Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định; một số DN cơ khí có quy mô lớn và có sức cạnh tranh, tập trung thế mạnh ở 3 phân ngành gồm xe máy và phụ tùng linh kiện xe máy; cơ khí gia dụng và dụng cụ; ôtô và phụ tùng ôtô... Tại các địa phương cũng đã hình thành một số cụm, ngành cơ khí.

    Điển hình, cơ khí chế tạo trong nước đã sản xuất, lắp ráp được hầu hết chủng loại xe ô tô con, xe tải, xe khách; sản xuất xe máy đã có tỷ lệ nội địa hóa 85-95%, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Trong đó phải kể đến một số doanh nghiệp điển hình trong lĩnh vực ô tô như: Vinfast, Thành Công, Thaco. Một số lĩnh vực ghi nhận có sự chuyển biến, đột phá như: Chế tạo thiết bị thủy công (cung cấp cho các công trình nhà máy thủy điện), chế tạo giàn khoan dầu khí, thiết bị điện, chế tạo và cung cấp thiết bị cho các nhà máy xi măng, đóng tàu các loại...

    Với những kết quả trên, theo số liệu của Bộ Công Thương, máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng hiện là nhóm hàng xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam (chỉ sau điện thoại và máy vi tính). Năm 2022, tổng kim ngạch xuất khẩu máy móc thiết bị của Việt Nam đạt gần 45,8 tỷ USD, tăng 19,4% so với năm 2021, chiếm tỷ trọng 12,32% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước.

    Về kết quả của ngành cơ khí trong những tháng đầu năm 2023, bà Trương Thị Chí Bình, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI) thông tin, năm nay, thị trường sản phẩm cơ khí suy giảm khoảng 20% đơn hàng, có doanh nghiệp đơn hàng suy giảm nặng hơn từ 30% đến 40%. Tuy nhiên, lĩnh vực cơ khí cũng có thêm nhiều khách hàng mới do sự dịch chuyển về sản xuất; năng lực của doanh nghiệp trong nước đã có những chuyển biến tích cực. Cùng với đó, trong nhiều công đoạn sản xuất, doanh nghiệp Việt Nam đủ khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp Trung Quốc, Ấn Độ.

    Cần nhiều hơn vai trò kết nối-dẫn dắt

    Dù có nhiều kết quả đáng ghi nhận, song nhìn vào thực tế của ngành cơ khí cho thấy, ngành còn thiếu nhiều sản phẩm có thương hiệu, thiếu doanh nghiệp cơ khí lớn mang tầm quốc tế; thị phần xuất khẩu mặt hàng này vẫn chủ yếu thuộc về khối doanh nghiệp FDI. Cụ thể, trị giá xuất khẩu máy móc thiết bị của khối doanh nghiệp FDI đạt 42,55 tỷ USD, chiếm tỷ trọng gần 93% kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng của cả nước (cao hơn so với mức tỷ trọng 92,75% của năm 2021).

    Nêu ra những hạn chế của ngành cơ khí Việt Nam, ông Nguyễn Chỉ Sáng, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp Cơ khí Việt Nam cho biết, công nghiệp cơ khí trong nước chưa có mặt hàng truyền thống, trong khi các doanh nghiệp vẫn ngại thay đổi quy mô sản xuất. Sản phẩm cạnh tranh chủ yếu bằng giá nhân công, nguyên liệu vật tư lại phụ thuộc vào nước ngoài. Ngoài ra, những hạn chế về luật thương mại quốc tế của doanh nghiệp cơ khí đã khiến các khách hàng nước ngoài chưa hài lòng...

    Ở góc độ doanh nghiệp, ông Trần Văn Nam, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Thiết bị điện MBT (Hà Nội) - đơn vị sản xuất máy biến áp, cho biết: Khó khăn chính trong hoạt động của doanh nghiệp là việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu, linh kiện; nguyên nhân là do chất lượng các sản phẩm trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu hoặc chưa có thông tin kết nối. “Nguyên vật liệu nhập khẩu không chỉ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp mà nhiều khi phải chờ nguyên liệu 2-3 tháng mới về. Điều này làm ảnh hưởng tới tiến độ sản xuất, giao hàng của doanh nghiệp”, ông Trần Văn Nam thông tin.

    Đưa ra các giải pháp chính sách phát triển ngành cơ khí, nhiều ý kiến đề xuất, cần tạo dựng thị trường cho doanh nghiệp cơ khí phát triển, trong đó Nhà nước đóng vai trò “bà đỡ” tạo điều kiện chính sách cho doanh nghiệp về tài chính, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu. Từ thực tế địa phương, ông Đinh Hồng Quân, Phó chủ tịch Thường trực Hội các doanh nghiệp cơ khí tỉnh Bắc Giang cho biết, ngành cơ khí Bắc Giang đã chế tạo được thiết bị tiên tiến sử dụng trong lĩnh vực thủy điện, điện gió, lò đốt rác... nhưng hầu hết doanh nghiệp có quy mô nhỏ, thiếu người định hướng, dẫn dắt, kết nối tạo sân chơi. Do vậy, đề nghị Bộ Công Thương tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia các chương trình xúc tiến thương mại; cùng với đó, đề nghị cần có chính sách yêu cầu các doanh nghiệp FDI nội địa hóa theo tỷ lệ % nhất định. Có cùng đề xuất, bà Trương Thị Chí Bình cho biết, vì sản phẩm cơ khí rất đa dạng nên tham tán thương mại Việt Nam ở các nước cần đẩy mạnh thông tin về thị trường, khách hàng. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp cơ khí trong nước nỗ lực hơn nữa.

    Để tăng thêm cơ hội cho các doanh nghiệp cơ khí tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, nhìn nhận từ thị trường Nhật Bản, ông Tạ Đức Minh, Tham tán thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, cho biết: Hiện Nhật Bản đang thực hiện chính sách mới nhằm tránh phụ thuộc nguồn cung vào một quốc gia và mở rộng sang các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam. Do đó, doanh nghiệp cơ khí trong nước cần đầu tư thêm chi phí cho mảng nghiên cứu, phát triển sản phẩm nhằm chủ động nguồn nguyên liệu, tăng năng lực sản xuất để có thể gia công sản phẩm có giá trị cao và bình đẳng hơn với doanh nghiệp Nhật Bản, qua đó tăng thêm cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

    Nguồn: Quân đội nhân dân

    Bài viết mới

    Bài viết khác:
    0
    Zalo
    Hotline